1. Chiếc bút chì đầu tiên được ra đời vào thời gian nào?
Những chiếc bút chì đầu tiên được làm ra vào thế kỉ 16. Một mỏ than chì lớn đã được phát hiện ở Brrowdale, Anh trong thời gian nửa đầu thế kỉ 16. Người dân địa phương đã cắt than chì thành hình que và sử dụng chúng để đánh dấu những con cừu của họ. Vào thời bấy giờ, hóa học còn sơ khai nên người ta cho rằng loại chất mới tìm được là một dạng của chì, vì vậy những thanh than chì đó được gọi là bút chì. Vì tên gọi như vậy mà nhiều người vẫn lầm tưởng rằng ruột bút chì được làm bằng chì. Trên thực tế, than chì tạo ra vết đánh dấu đậm hơn chì, tuy nhiên chúng rất mềm và dễ vỡ, vì vậy người ta phải đặt thanh than chì vào trong một que gỗ rỗng rồi mới dùng nó để viết.
Khoảng năm 1500, một cặp vợ chồng người Ý là Simonio và Lyndiang Bernacotti đã tạo ra loại bút chì mà rất có thể là thiết kế đầu tiên của bút chì vỏ gỗ hiện đại. Họ đục rỗng một que gỗ bách xù và đặt vào trong đó một thanh than chì. Sau đó, một kĩ thuật làm bút chì Ưu việt hơn đã được phát minh ra. Cụ thể, thanh than chì được chèn vào giữa hai mảnh vỏ bút bằng gỗ rồi được dán lại với nhau bằng keo. Về cơ bản, kĩ thuật này vẫn còn tiếp tục được sử dụng cho đến tận ngày nay.
2. Ai là người đầu tiên phát minh ra đồng hồ?
Chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên được phát minh vào những năm 1500 ở Đức bởi một người thợ khóa tên " Peter Henlein. Nó giống như một chiếc đồng hồ tường có thể mang đi được. Tuy nhiên, nó nặng " mức người ta phải đeo nó vào thắt lưng.
Những chiếc đồng hồ đầu tiên là các thiết bị cơ khí. Năng lượng để đồng hồ hoạt động được cung cấp từ một dây cót cuộn chặt. Khi dây cót dần bung ra, nó sẽ làm quay các bánh răng chịu trách nhiệm làm các kim trên mặt đồng hồ dịch chuyển. Những chiếc kim này chuyển động nhịp nhàng nhờ một bánh xe cân bằng. Trong suốt hơn 400 năm sau đó, lịch sử phát triển đồng hồ chủ yếu xoay quanh việc tinh chỉnh đồng hồ cơ. Đến thế kỉ 20, đồng hồ điện tử ra đời, phá vỡ thế độc tôn đồng hồ cơ.
3. Máy in đã ra đời như thế nào?
Máy in là một thiết bị dùng để thể hiện các nội dung đã được soạn thảo hoặc thiết kế sẵn lên các chất liệu khác nhau, trong đó phổ biến nhất là giấy và vải. Lịch sử in ấn bắt đầu từ rất sớm, khoảng 3.500 TCN, khi các nền văn minh Ba Tư và Lưỡng Hà sử dụng con dấu hình trụ để chứng nhận các tài liệu viết trên đất sét. Các hình thức in ấn sơ khai khác còn có con dấu khối, vết in trên gốm và in vải. In mộc bản trên giấy có nguồn gốc từ Trung Quốc vào khoảng năm 200. Tuy nhiên, tất cả các hình thức in ấn ban đầu này đều được thực hiện thủ công.
Năm 1440, nhà phát minh người Đức Johannes Gutenberg đã nghĩ ra một hệ thống in ấn mới bằng cách kết hợp các kĩ thuật in ấn sẵn có vào thời đó với những sáng tạo của riêng mình. Hệ thống in ấn này sử dụng các chữ in có thể di chuyển được và mực dầu. Đây có thể coi là chiếc máy in đầu tiên trên thế giới. Nhờ phát minh này mà người ta có thể in sách với số lượng lớn. Đến thế kỉ 19, các nhà phát minh khác đã tạo nên những chiếc máy in chạy bằng hơi nước. Tới thời đại ngày nay, máy in là các thiết bị điện tử tự động hóa và có thể in nhanh hơn rất nhiều so với tổ tiên của chúng.
Máy in là một trong những phát minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Nhờ có máy in mà sách báo, tạp chí cũng như nhiều loại tài liệu đọc khác được sản xuất với số lượng lớn và chính điều này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao khả năng đọc viết của mọi người trên thế giới.