1. Ai là người đầu tiên phát minh ra siêu âm y khoa?
Siêu âm y khoa là kĩ thuật dùng sóng siêu âm để thu hình ảnh rõ ràng về các phần khác nhau của cơ thể người. Kĩ thuật này được sử dụng để phát hiện khối u, phân tích cấu trúc xương hay kiểm tra sức khỏe của bào thai.
Có hai cái tên tiêu biểu trong lịch sử phát triển của siêu âm y khoa. Người thứ nhất là bác sĩ người Úc Karl Theodore Dussik. Ông đã đưa ra ý tưởng về việc sử dụng sóng siêu âm làm thiết bị chẩn đoán hình ảnh cho mục đích y tế trong một bài luận văn được ông viết vào năm 1941. Người thứ hai là giáo sư người Scotland, lan Donald. Ông là người đi tiên phong trong việc sử dụng kĩ thuật siêu âm trong y tế vào những năm 1950.
2. Vi mạch lần đầu tiên xuất hiện vào năm nào?
Vi mạch hay mạch tích hợp (integrated circuit, gọi tắt là IC) là mạch điện rất nhỏ chứa các linh kiện bán dẫn (như transistor) và linh kiện điện tử thụ động (như điện trở) được kết nối với nhau, để thực hiện được một chức năng xác định. Vi mạch giúp giảm kích thước, đồng thời gia tăng độ chính xác của mạch điện lên rất nhiều.
Lịch sử phát triển của vi mạch bắt đầu từ năm 1949, khi kĩ sư người Đức Werner Jacobi nộp bằng sáng chế cho một thiết bị khuếch đại bán dẫn giống như vi mạch, có 5 transistor trên một bề mặt chung cho bộ khuếch đại 3 tầng, được sử dụng lạm dụng cụ trợ thính. Ngày 12 tháng 9 năm 1958, kĩ sư điện tử người Mi Jack Kilby đã giới thiệu nguyên mẫu đầu tiên của vi mạch ra công chúng.
3. Mã vạch đã ra đời như thế nào?
Mã vạch được phát minh bởi Norman Joseph Woodland và Bernard Silver. Năm 1948, khi đang là sinh viên sau đại học tại Học viện Công nghệ Drexel, họ đã phát triển ý tưởng này sau khi biết mong muốn của chủ tịch chuỗi cửa hàng thực phẩm Food Fair tại địa phương là có một hệ thống để đọc tự động thông tin sản phẩm khi thanh toán. Họ đã lấy cảm hứng từ mã Morse và tạo nên mã vạch đầu tiên có dạng những vạch rộng và hẹp thẳng đứng song song với nhau.

Sau đó, họ chuyển sang sử dụng các đường tròn thay vì vạch kẻ vì cho rằng như thế hệ thống sẽ hoạt động tốt hơn. Ngày 20 tháng 10 năm 1949, họ đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho “Phương pháp và thiết bị phân loại” của mình. Họ nhận được bằng sáng chế vào năm 1952.